Nhận
lời mời của Tổng thống Barack Obama, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang sẽ
tiến hành chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ từ 24 - 26/7/2013. Nhân dịp này,
Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ Nguyễn Quốc Cường đã trả lời phỏng vấn về
chuyến thăm này.
Câu hỏi: Được biết Chủ tịch nước Trương Tấn Sang sẽ tiến hành chuyến
thăm chính thức tới Hoa Kỳ trong vài ngày tới, xin Đại sứ cho biết ý
nghĩa của chuyến thăm?
Trả lời: Chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ của Chủ tịch nước Trương Tấn
Sang từ ngày 24 – 26/7 tới có ý nghĩa rất quan trọng, mở ra một giai
đoạn mới cho quan hệ hai nước. Đây không chỉ là nhận định của phía ta,
mà cả phía Hoa Kỳ cũng cùng chung nhận xét, đánh giá như vậy. Ý nghĩa
quan trọng của chuyến thăm được thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, đây là chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ lần thứ hai của người
đứng đầu Nhà nước ta sau gần 2 thập niên bình thường hóa quan hệ và là
chuyến trao đổi đoàn cấp cao đầu tiên trong vòng 5 năm qua. Bản thân
điều đó đã nói lên tầm quan trọng của chuyến thăm.
Thứ hai, chuyến thăm diễn ra bối cảnh quan hệ hai nước đang trên đà
phát triển khá sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực, các kênh trao đổi giữa
hai nước ngày càng đa dạng, giữa Nhà nước với Nhà nước, nhân dân với
nhân dân, và giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị của hai nước…
Trong chuyến thăm, ngoài hội đàm với Tổng thống Obama, Chủ tịch nước
Trương Tấn Sang sẽ có một chương trình hoạt động hết sức dày đặc, làm
việc với lãnh đạo Quốc hội, nhiều Thượng nghị sĩ và Hạ nghị sĩ, gặp gỡ
chính giới, nhiều doanh nghiệp và học giả, bạn bè, lãnh đạo một số tổ
chức quốc tế và cộng đồng người Việt Nam ở Hoa Kỳ. Đây thực sự là cơ
hội để Lãnh đạo hai nước trao đổi về tầm nhìn quan hệ song phương trong
giai đoạn mới, về những vấn đề quốc tế và khu vực mà hai bên cùng quan
tâm, qua đó đưa quan hệ đi vào chiều sâu và ổn định hơn.
Thứ ba, chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ của Chủ tịch nước Trương Tấn
Sang là sự triển khai tích cực đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, Việt Nam là bạn, là đối tác tin
cậy trong cộng đồng quốc tế, cũng như chiến lược hội nhập quốc tế của
nước ta.
Câu hỏi: Đại sứ đánh giá như thế nào về thực trạng quan hệ hai nước thời gian qua và triển vọng trong thời gian tới ?
Trả lời: Quan hệ hai nước những năm qua đã phát triển khá toàn diện
trên nhiều lĩnh vực. Về chính trị ngoại giao, các chuyến thăm lẫn nhau
và các cuộc gặp gỡ cấp cao bên lề các hội nghị quốc tế đã góp phần duy
trì đà quan hệ. Hiện nay hai nước đã thiết lập 10 cơ chế đối thoại về
chính trị - an ninh - quốc phòng, kinh tế, về an ninh, phát triển của
khu vực châu Á – Thái Bình Dương…
Về kinh tế, từ năm 2005, Hoa Kỳ đã trở thành thị trường xuất khẩu
lớn nhất của Việt Nam. Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường
Hoa Kỳ đã tăng từ 200 triệu USD năm 1995 lên hơn 20 tỷ USD năm 2012, tức
là tăng hơn 100 lần trong vòng chưa đầy 20 năm. Năm 2012, kim ngạch
thương mại hai chiều đạt gần 25 tỷ USD. Riêng 6 tháng đầu năm nay,
thương mại 2 chiều đã đạt 13,5 tỷ USD, tăng hơn 16% so với cùng kỳ năm
trước. FDI của Mỹ vào Việt Nam tính đến hết 2012 đứng thứ 7 trong số
các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với 629 dự án, trên 11 tỷ
USD. Đó là chưa tính tới số đầu tư khá lớn vào Việt Nam của các tập
đoàn, doanh nghiệp Hoa Kỳ nhưng đăng ký ở các nước khác như Xinh-ga-po
hay Hồng Công (Trung Quốc)…
Hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ tiếp tục được tăng cường,
hai bên đang phát triển “quan hệ đối tác kiểu mẫu” trong nghiên cứu về
biến đổi khí hậu và khắc phục hậu quả của biến đổi khí hậu, nước biển
dâng. NASA và Viện Khoa học và Công nghệ VN năm ngoái đã ký tuyên bố ý
định chung về hợp tác nghiên cứu công nghệ không gian.
Giao lưu nhân dân giữa hai nước không ngừng mở rộng. Trong 10 năm
qua, có khoảng trên 60.000 lưu học sinh sang học ở Hoa Kỳ từ phổ thông,
cao đẳng trở lên. Nếu năm 2008 ta có khoảng trên 8 nghìn sinh viên đang
theo học ở Hoa Kỳ, thì 5 năm sau, con số đó đã tăng gấp đôi, lên tới
trên 16 nghìn, đưa Việt Nam đứng đầu trong các nước Đông Nam Á, và đứng
thứ 8 trong số tất cả các nước có sinh viên du học tại Hoa Kỳ. Trong năm
2012, lượng khách Hoa Kỳ đến Việt Nam đạt gần 400 nghìn lượt, xếp thứ 4
trong số các nước có nhiều du khách vào Việt Nam.
Bên cạnh đó, cũng cần kể đến sự hợp tác, phối hợp có hiệu quả giữa
hai nước trên các diễn đàn khu vực và quốc tế, nhất là Diễn đàn kinh tế
châu Á-Thái binh dương (APEC), Diễn đàn an ninh châu Á (ARF), Cấp cao
Đông Á (EAS), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng mở rộng (ADMM+)…
Về triển vọng, tôi cho rằng quan hệ hai nước còn rất nhiều tiềm năng
và hoàn toàn có cơ sở để chúng ta lạc quan về mối quan hệ hướng về phía
trước giữa hai nước trong những năm tới, bởi lẽ:
Một là, trong gần hai thập niên kể từ khi bình thường hóa quan hệ,
hai bên đã tạo dựng được nền móng khá vững chắc với những cơ chế hợp tác
ổn định cho quan hệ song phương.
Hai là, nhìn về tương lai, Việt Nam đang tiến hành công cuộc Đổi mới
sâu rộng với mục tiêu đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại đến 2020. Lãnh đạo Hoa Kỳ đã nhiều lần phát biểu coi Việt
Nam là đối tác đang nổi quan trọng ở khu vực. Cả hai bên cùng chia sẻ
những lợi ích trong việc duy trì hòa bình, ổn định và thúc đẩy thịnh
vượng ở châu Á - TBD và trên thế giới.
Ba là, hai nước đang tích cực tham gia đàm phán Hiệp định Đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP) cùng với 10 quốc gia khác, và nếu có thể đi
đến việc ký kết vào cuối năm nay như cam kết của các nhà lãnh đạo, thì
TPP sẽ mở ra một cơ hội lớn cho sự hợp tác giữa hai nước trong khuôn khổ
một thị trường rộng lớn với 800 triệu dân và chiếm tới khoảng 40%
thương mại cũng như GDP toàn cầu.
Gần một thập niên đã trôi qua kể từ khi hai nước xây dựng khuôn khổ
quan hệ “đối tác xây dựng, hữu nghị, hợp tác nhiều mặt trên cơ sở bình
đẳng, cùng tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi” vào năm 2005. Với tầm mức
của quan hệ hai nước hiện nay, với những tiềm năng đáng kể đang hứa hẹn
phía trước, đã đến lúc hai nước cần xác lập khuôn khổ đối tác mới cho
quan hệ hai nước. Và chúng ta trông đợi vào cuộc hội đàm giữa Tổng thống
Barack Obama và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang sẽ xác định được khuôn
khổ quan hệ mới đó, cùng với những nguyên tắc và nội hàm rõ ràng.
Câu hỏi: Xin Đại sứ cho biết hai bên đã giải quyết như thế nào trong
những vấn đề do chiến tranh để lại và những vấn đề hai bên còn khác biệt
?
Trả lời: Đúng là nói đến quan hệ hai nước, chúng ta không thể không
đề cập đến việc giải quyết những vấn đề do chiến tranh để lại. Việt Nam
đã trải qua những mất mát, hy sinh hết sức to lớn về người và của trong
cuộc chiến với hơn 300.000 người bị mất tích, hàng triệu người đã hy
sinh; hàng ngày trên đài phát thanh, truyền hình Việt Nam vẫn đưa tin
tìm kiếm những người thân, những đồng đội đã ngã xuống, và nếu vẫn với
nguồn lực như hiện nay thì phải mất 100 năm nữa, Việt Nam mới giải quyết
xong việc rà phá bom mìn còn chưa nổ tại khắp các tỉnh, thành của đất
nước. Mặc dù vậy, Việt Nam vẫn coi việc tìm kiếm lính Mỹ bị mất tích
trong chiến tranh là vấn đề nhân đạo và hợp tác vô điều kiện với Hoa Kỳ
trong vấn đề này. Tính đến tháng 5/2013, Việt Nam và Hoa Kỳ đã thực hiện
thành công 109 đợt hoạt động hỗn hợp, hơn 125 đợt trao trả hài cốt, nhờ
đó phía Hoa Kỳ đã nhận dạng được 693 trên tổng số 1983 trường hợp bị
mất tích. Về phần mình, phía Hoa Kỳ cũng đã giúp thu thập, chia sẻ thông
tin với Việt Nam về khoảng 1000 trường hợp bộ đội Việt Nam bị mất tích,
trao trả các kỷ vật, mà một trong số đó là cuốn Nhật ký Đặng Thùy Trâm
đã làm xúc động hàng chục triệu trái tim người Việt Nam chúng ta cũng
như nhiều bạn bè quốc tế. Chúng ta ghi nhận sự hợp tác, hỗ trợ ngày một
tăng của Chính phủ và các tổ chức, cá nhân của Hoa Kỳ liên quan đến việc
giải quyết hậu quả chất độc da cam dioxin, như dự án “Tẩy độc môi
trường ô nhiễm dioxin tại sân bay Đà Nẵng” và các trợ giúp y tế đối với
các nạn nhân chất độc da cam/dioxin… , đồng thời chúng ta cũng đề nghị
phía Hoa Kỳ làm nhiều hơn nữa liên quan đến những vấn đề nhân đạo này.
Về dân chủ nhân quyền, đúng là hai bên còn có những khác biệt, đó là
thực tế. Vấn đề quan trọng là hai bên sẵn sàng trao đổi thẳng thắn để
tăng cường hiểu biết, thu hẹp các khác biệt. Trên tinh thần đó, tôi hiểu
rằng trong chuyến thăm Hoa Kỳ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, chúng
ta cũng sẵn sàng trao đổi các vấn đề liên quan đến dân chủ nhân quyền,
tự do tôn giáo… Được biết, Chủ tịch nước có mời một số vị chức sắc tôn
giáo ở Việt Nam cùng tham gia đoàn, và các vị chức sắc tôn giáo đó sẽ có
cuộc trao đổi rất thẳng thắn và cởi mở với nhiều tổ chức phi chính phủ
quan tâm đến vấn đề này, kể cả những tổ chức xưa nay vẫn có cái nhìn
thiên lệch về dân chủ nhân quyền và tự do tôn giáo ở Việt Nam. Phía Hoa
Kỳ cũng đánh giá rất cao hoạt động này.
Chỉ có hữu nghị, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi trên cơ sở Hiến
chương Liên hiệp quốc và luật pháp quốc tế, tôn trọng thể chế chính trị,
độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau mới là sự lựa chọn
đúng đắn để đưa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ hướng tới tương lai, đáp ứng
nguyện vọng và lợi ích chung của nhân dân hai nước./.