​​​
​​Trong 11 nội dung phán quyết của WTO có 7 nội dung có lợi cho Việt Nam

Ngày 17/11, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã chính thức công bố các phán quyết cuối cùng của Ban hội thẩm (Panel) đối với các khiếu kiện của Việt Nam liên quan đến việc Mỹ áp thuế chống phá giá lên mặt hàng tôm nước ấm đông lạnh của Việt Nam (vụ kiện tôm DS/429).

Ban hội thẩm đã xem xét 11 nội dung trong khiếu kiện của Việt Nam và đưa ra phán quyết với 7 nội dung có lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu tôm của Việt Nam, nhất là về thủ tục điều tra và tính toán biên độ phá giá. Trong phán quyết đã làm rõ nhiều vấn đề pháp lý mà các doanh nghiệp Việt Nam thường xuyên gặp phải trong thủ tục điều tra và áp thuế chống bán phá giá của Mỹ.

Hồi tháng Chín, Bộ Thương mại Mỹ (DOC) công bố kết quả chính thức đợt rà soát hành chính lần thứ 8 về thuế chống bán phá giá đối với tôm đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam, trong đó mức thuế được công bố là cao bất thường và giữ nguyên mức thuế suất toàn quốc 25,76% như trong bảy lần trước đó.

Cách đó một năm, cũng chính DOC tuyên bố các doanh nghiệp Việt Nam không bán phá giá và đưa ra mức thuế 0% đối với các doanh nghiệp bị đơn bắt buộc và bị đơn tự nguyện.

Năm ngoái, Phái đoàn thường trực Việt Nam bên cạnh Liên hợp quốc, WTO và các tổ chức quốc tế khác tại Geneva đã đề nghị lập Ban hội thẩm về vụ kiện tôm DS/429 đối với Mỹ và đã được Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) chấp thuận. Tiếp đó, phái đoàn Việt Nam yêu cầu kiểm điểm tình hình thi hành phán quyết của DSB trong vụ kiện tôm DS/404 cũng về việc Mỹ áp thuế chống bán phá giá đối với tôm của Việt Nam.

Song song với đó, Việt Nam chính thức gửi yêu cầu tham vấn 3 nội dung trong vụ kiện chống bán phá giá tôm, gồm phương pháp quy về 0 (zeroing), thuế suất toàn quốc và vấn đề chọn mẫu.

Trong vụ viện DS/404, Ban hội thẩm đã ra phán quyết ủng hộ 2 trong 3 vấn đề chính mà Việt Nam đưa ra, đồng thời khuyến nghị chính phủ Mỹ điều chỉnh các quy định phù hợp với Hiệp định chống bán phá giá của WTO cũng như Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT 1994).

Theo Ban hội thẩm, việc Mỹ sử dụng phương pháp zeroing trong vụ tôm xuất khẩu của Việt Nam là không phù hợp với quy định của WTO, do đó Mỹ không được tiếp tục áp dụng phương pháp này.

Kể từ khi tiến hành vụ kiện DS/404 đến nay, phái đoàn Việt Nam đã và đang tiếp tục yêu cầu Mỹ nghiêm túc tuân thủ phán quyết, sửa đổi luật của Mỹ liên quan đến cách tính biên độ chống bán phá giá, trao đổi làm rõ việc thực hiện các thủ tục của Mỹ liên quan đến điều tra chống bán phá giá đối với những mặt hàng tôm nhập khẩu từ Việt Nam, đảm bảo lợi ích của Việt Nam trong vụ kiện DS/404.

 

Thông tin thêm:

Vị thế của thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ

Theo thống kê của ITC, 8 tháng đầu năm nay, nhập khẩu thủy sản vào Mỹ đạt 13,65 tỷ USD, tăng 16,2% so với cùng kỳ năm ngoái.

Tôm: Nhập khẩu trong quý III tăng mạnh, giá trung bình giảm

Nhập khẩu tôm tăng mạnh nhất, chiếm tỷ trọng cao nhất: tăng gần 40% và chiếm 33% giá trị nhập khẩu. Mỹ là nước đứng đầu thế giới về khối lượng tôm nhập khẩu. Mỹ và Nhật Bản là 2 nước tiêu thụ tôm có giá trung bình cao nhất: 11-13 USD/kg trong năm nay.

8 tháng đầu năm, Mỹ nhập khẩu 372,6 nghìn tấn tôm. Trong quý I và quý II Mỹ nhập khẩu trung bình 45 nghìn tấn tôm/tháng, sang quý III tăng lên 53 nghìn tấn/tháng.

Việt Nam là nguồn cung cấp lớn thứ 3 (chiếm 15% thị phần) sau Indonesia (chiếm 19,3% thị phần) và Ấn Độ (17,4%). Indonesia, Ấn Độ hầu như không bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh EMS trên tôm nuôi, Việt Nam đã hồi phục sản lượng tương đối nhanh, trong khi Thái Lan và Trung Quốc vẫn bị ảnh hưởng nặng nề khiến sản lượng giảm mạnh.

So với Indonesia và Ấn Độ, tôm Việt Nam tại Mỹ thường cao hơn 1 USD/kg. 5 tháng đầu năm, giá trung bình tôm Việt Nam nhập khẩu vào Mỹ là 15 USD, tuy nhiên, sang tháng 6 giảm còn 14 USD và tháng 7-8 tiếp tục giảm chỉ còn 13 USD. Nguyên nhân: nguồn cung tăng, lượng nhập khẩu tăng so với năm trước và so với những tháng đầu năm.

Cúc Nhi (Nguồn Vasep)

​ 

  ​​  ​​​​​​​​​​​​​   ​​​